Câu Tiễn đồng ý sai sứ đi mời xem cô gái hỏi xem có thể chỉ dẫn về kiếm kích hay chăng. Cô gái liền đồng ý đi lên miền bắc để hội kiến với Việt Vương, trên đường gặp một ông già, tự xưng là Viên Công. Viên Công hỏi:
- Ta nghe nói nàng giỏi kiếm thuật, muốn xem thử ra sao?
Cô gái đáp:
- Thiếp quả không dám dấu, xin ông cứ tự tiện.
Viên Công bèn nhổ một cây trúc Lâm Ư, một nửa đã khô, nửa kia gãy ra rơi xuống đất. Cô gái liền chộp lấy. Viên Công cầm cành tre đâm cô gái, cô gái liền gạt ra rồi nhân đó tấn công vào. Tấn công ba lần, vào sát người giơ gậy đánh Viên Công. Viên Công vội nhảy vọt lên cây, biến thành một con vượn trắng chạy mất. Cô gái lại tiếp tục đi gặp Việt Vương.
Việt Vương hỏi:
- Đường lối đánh kiếm là như thế nào?
Cô gái đáp:
- Thiếp sống ở trong rừng sâu, lớn lên chung quanh không có ai nên không theo học đường lối nào cả, cũng chưa từng đi đến nước nào khác. Thiếp bản tính thích đánh nhau, nên luyện tập ngày đêm không ngừng nghỉ, chẳng được ai dạy dỗ mà tự mình nghĩ ra thôi.
Việt Vương hỏi:
- Thế lối đánh đó ra sao?
Cô gái đáp:
- Lối đánh kiếm đó rất tinh vi mà nhiều biến hoá (thậm vi nhi dịch), ý tứ thì huyền bí mà sâu xa (thậm u nhi thâm). Đường lối có phép tắc, lại bao hàm cả âm dương. Bên kia mở thì bên này đóng, bên này xuống thì bên kia lên (khai môn bế hộ, âm suy dương hưng).
Phàm việc chiến đấu bằng tay, tinh thần bên trong cần phải vững vàng (nội thực tinh thần), dáng vẽ bên ngoài thì cần phải nhàn nhã (ngoại thị an dật), thoạt trông thì hiền lành như đàn bà tử tế mà khi xông lên thì như con hổ gặp nguy (kiến chi tự hảo phụ, đoạt chi tự cụ hổ).
Khi thủ thế thì ngưng khí mà chờ đợi, theo thần mà thay đổi (bố hình hầu khí, dữ thần cụ vãng) theo sát địch thủ như bóng mặt trời, ra tay thì nhanh như thỏ chạy, đuổi theo như hình với ảnh, chập chờn thấp thoáng. Hô hấp tới lui, tránh ra xa ngoài tầm của địch, dùng đúng phép để chặn đường, khi ngang khi dọc, khi thuận khi nghịch, khi chính diện, khi truy kích tất cả đều không có một tiếng động.
Nếu được như thế thì một người có thể chống với trăm người, trăm người có thể chống với vạn người. Nếu đại vương muốn thí nghiệm thì thiếp sẵn sàng làm ngay.
Việt vương mừng rỡ, ban cho thêm một chữ ‘nữ’ nên gọi là Việt Nữ. Lại sai năm đội trưởng giỏi nhất ra học để đem về dạy cho quân sĩ. Thành thử thời đó người ta gọi đó là Kiếm Pháp của Công Chúa nước Việt (Việt Nữ chi kiếm) (Trích nguyên bài Việt Nữ Kiếm từ đâu mà ra của Nguyễn Duy Chính).
Mặc dù ‘Việt Nữ Kiếm’ lợi hại như vậy, và nàng thiếu nữ đã xử dụng tới mức thâu phát tùy ý, nhưng mặc nàng đâm chém, bổ phạt kiểu nào, đường kiếm vẫn không xâm phạm được tà áo của người thanh niên này. Chàng ta cứ ung dung lạng giữa vào đường kiếm, tránh né nó trong đường giây kẽ tóc. Thuật tránh né của chàng hết sức độc diệu, bởi thông thường khi tránh né những chiêu tấn công của địch, đa số, các tay võ thuật đều lùi lại, hoặc ra chiêu thức chống lại, nhưng đằng này, chàng trẻ này cứ lao tới theo mũi kiếm, đường kiếm từ trái qua phải, thì chàng cũng theo sát lấy nó từ trái qua phải. Điều hay của chàng là tuy cùng di động cùng hướng, nhưng người ngoài không cách nào phân biệt ra được nàng chém xuống trước, hay chàng né xuống trước mà chỉ có thể nó song song với nhau.
Thấm thoát đã trao đổi qua trăm chiêu, người con gái áo đỏ đã thấm mệt nhoài và ngán trước tài nghệ siêu quần của chàng trai này, bèn vung ra chiêu tối độc của Việt Nữ Kiếm là ‘Nhất kiếm trảm Bạch Viên’. Muôn ngàn mũi kiếm phát toé tưởng chừng không lối thoát, trăm hư nhưng lại nhất thật, nàng này dùng hết sức phi thân chỉa ngay yết hầu chàng thanh niên này đâm vào. Người thanh niên cũng không phải tay vừa, chàng mỉm cười, đứng tro như một pho tượng gỗ, và chỉ khi trăm hư đã hết, nhất thật đang phi tới, thì chàng hú một tiếng, đề tụ chân khí, nhúng chân phi lùi một bước dài. Một người bay tới, một người phóng lùi, chiêu vừa dừng thì người cũng hết lùi.
Tiếp tục>>